Feature news

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thuyết bù trừ hay "bồi hoàn ”

Jean Baptiste Say coi lợi tức của kẻ sở hữu tư bản là con đẻ của bản thân tư bản, còn thu nhập của nhà kinh doanh (Fecmia, chủ xưởng, thương nhân) là "phẩn thường vê năng lực kinh doanh về hoạt động của anh ta", "một hình thức đặc biệt của tiền công" mà nhà tư bản tự trả cho mình. Theo Jean Baptiste Say, các nhà kinh doanh nhận được "tiền công" là do biệt đội thú cưng
"tài năng... tinh thần trật tự và công tác lãnh đạo cùa họ", còn công nhân làm những việc giản đơn, thô kệch nên nhận được "cái mà công nhân cần để sống". Mặc dù Jean Baptiste Say thừa nhận với số tiền công lúc đó chưa đáp ứng được nhu cầu về thức ăn, áo mặc, nhà ở của công nhân. Nhưng Jean Baptiste Say lại cho rằng xã hội tư sản không chịu trách nhiệm về tình hình đó. Jean Baptiste Say là người kiên quyết phản đối việc nâng cao tiền công của công nhân. b.

Thuyết bù trừ hay "bồi hoàn ” 
Là người ca tụng CNTB, Jean Baptiste Say tìm mọi cách để che đậy hậu quả của việc sử dụng máy móc theo lối TBCN. Ông đưa ra "thuyết bù trừ" nhằm giải thích nạn thất nghiệp. Theo Jean Baptiste Say, chỉ trong thời kỳ đầu, việc sử dụng máy móc "có một số điều bất tiện", gạt bỏ một bộ phận công == nhân ra và làm cho họ "tạm thời" không có việc làm. Nhưng cuối cùng thì công nhân vẫn có lợi vì việc sử dụng máy móc, công ăn việc làm sẽ tăng lên. Ông ta đưa ra một ví dụ: Cùng với việc phát minh ra ấn loát, những người chép sách lúc đầu biet doi thu cung
giảm đi, nhưng sau đó sự phát triển của ngành ấn loát sẽ làm tãng số công nhân ấn loát lên nhiều lần so với số người chép sách trước đây. Jean Baptiste Say còn cho rằng, việc dùng máy móc để sản xuất cho hàng hóa rẻ đi, công nhân là người "có lợi nhất". Theo cách trình bày của Jean Baptiste Say, công nhân là giai cấp "quan tâm đến thành tựu kỹ thuật của sản xuất hơn tất cả các giai cấp khác". Thực ra, ông chỉ muốn chứng minh "sự hòa hợp lợi ích" giữa tư bản và lao động.
Xem thêm game tại: http://tingame247.net/game/game-biet-doi-thu-cung
Learn more »

Giá cả tự nhiên của tiền tệ

w. Petty đã lẫn lộn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Từ đó, w. Petty có ý định đo giá trị bằng hai đơn
vị lao động và đất đai. Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: "Lao dộng là cha, còn đất đai là mẹ của của cải", về phương diện của cải, nói như vậy là đúng, chỉ 'rõ nguồn game sát thủ tàng hình gốc giá trị sử dụng. Nhưng sai lầm là ông đã coi hai yếu tố xác định giá trị là lao động và tự nhiên. Lý luận về tiền tệ Trong tác phẩm Bàn về tiền tệ, w. Petty cho rằng tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có. Vì thế, đánh giá tiền tệ quá cao là một sai lầm (chống tư tưởng trọng thương). w. Petty nghiên cứu hai thứ kim loại giữ vai trò tiền tệ là vàng và bạc. Quan hệ tỉ lệ giữa chúng (giá trị của chúng) là do số lượng lao động bỏ vào khai thác vàng và bạc quyết định. Ông đã đánh giá chế độ song bản vị giống như nhận xét của K. Marx sau này: sự tồn tại 2 thước đo giá trị mâu thuẫn với thước đo giá trị. Ông nêu ra luận điểm:

Giá cả tự nhiên của tiền tệ 
là do giá cả của tiền tệ có giá trị đáy đủ quyết định.
K. Marx cho rằng: Bản thân các dấu hiệu của tiền tệ không phải là giá trị, chỉ có giá trị của bạc và vàng. w. Petty là người đầu tiên trong chính trị kinh tế học nghiên cứu lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (ông cố gắng xây dựng quy luật lưu thông tiền trên cơ sở số lượng hàng hóa và tốc độ chu chuyển của tiền tệ). Chẳng hạn, ỏng đã xác định (tính toán tùy tiện) số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông hàng hóa nước Anh như sau: Theo ông, game sat thu tang hinh chỉ cần 1/10 số tiền chi phí trong một năm là hoàn toàn đủ cho nước Anh. Trong cuốn Bàn vê' tiền tệ, ông tính toán cụ thể rằng nước Anh cần một số lượng tiền đủ để trả 1/2 địa tô hàng năm, 1/4 tiền thuê nhà, toàn bộ số chi tiêu hàng tuần của dân số và khoảng 25% giá trị xuất khẩu.
Xem thêm chi tiết về game tại: http://tingame247.net/game/game-sat-thu-tang-hinh-2
Learn more »

Khổng Tử và Mạnh Tử đề xướng

Theo chế độ này, một số hộ nông dân hợp thành công xã, cày ruộng riêng và chung để lấy thu hoạch nộp Nhà nước, đòi hạn chế sự chuyên quyền của các nhà giàu, điều tiết việc sở hữu ruộng đất. Ông đặt dân lên hàng đầu, vua ở hàng thứ; chống thuế nặng, bảo vệ quyền khởi nghĩa của dân chúng. Ông ủng hộ sự phân chia lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay. võ sĩ giác đấu Tuy nhiên, ông cũng có một số nhuợng bộ như chia ruộng đất cho các đại thần với tiêu chuẩn cao hơn. h. Quan điểm kinh tế của Lão Tử Đây là trào lưu tu tưởng kinh tế bắn bó với giai cấp chủ nô
và nông dân giàu có. Theo phái này, nghề nông và nghề binh mới là chính đáng, còn thương nhân và thợ thủ công là nguy hiểm đối với sự tồn tại của Nhà nước. Phái Lão Tử không thừa nhận việc làm giàu tư nhân vì điều đó dẫn đến việc chiếm đoạt quyền bính. Họ chỉ thừa nhận sự tích lũy của cải trong ngân khố quốc gia. Phái Lão Tử đánh giá cao vai trò của Nhà nước. Theo họ, để xã hội binh yên và hưng thịnh cần có một Nhà nước mạnh. Họ đối lập nhân dân với sức mạnh, coi sự yếu đuối của dân là nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước. Đại biểu của phái Lão Tử là Thượng Ưởng, một tể tướng của nước Tần. Ông tiến hành những cuộc cải cách ruộng đất vào những năm 350 TCN, ủng hộ chế độ tư hữu về ruộng đất, chống lại sở hữu công xã. Ông chủ trương xóa bỏ "chế độ tỉnh điền" do


Khổng Tử và Mạnh Tử đề xướng
, đẩy nhanh quá trình xóa bỏ chế độ công xã và thúc đẩy sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. c. "Quản tử luận”
Luận chính kinh tế tập thể "Quản tử luận" được đưa ra vào thời kỳ chế độ nô lệ. Lúc này, các nghề thủ công và buôn bán đang phát triển mạnh. Vo si giac dau Những thay đổi của đời sống xã hội được giải thích trong Quản tử luận như là những sự thay đổi giữa những năm mất mùa và những năm được mùa. Cơ sở của các giai cấp được coi là "nguyên tắc cao nhất".
Xem thêm chi tiết về game tại: http://tingame247.net/game/game-vo-si-giac-dau
Learn more »

Khổng Tử khuyên Nhà vua làm cách nào để bắt nhân dân phải "phục tùng" mình

Tuy nhiên, Khổng Tử chỉ quan tâm đến việc sao cho của cải của các chủ nô ngày càng phát triển. Học thuyết về Quyên tất yếu lần đầu tiên được đưa ra ở Trung Quốc - đó là một thứ triết học xã hội, đạo đức và luật pháp. Theo quan điểm này, Ngọc hoàng thượng đế không can thiệp vào đời sống xã hội của con người mà đời sống xã hội phụ thuộc vào các quy luật tự nhiên do trí tuệ con người khám phá ra và được lưu truyền như là các luật dân sự, hay còn được gọi là game võ sĩ giác đấu Quyên tự nhiên, Quyền tất yếu. Học thuyết này được truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác nhưng có thay đổi nội dung giai cấp
III 2 Trưởng Đại học Kìn r ("11 »Ấ/» Ụ uoc d ^ của mình. Do bảo vệ chế độ sở hữu nô lệ nên Khổng Tử có ý định chứng minh rằng ông không chống đối chế độ cũ và luôn luôn bảo vệ quyền lợi của các hoàng tộc giàu có. Mặt khác, ông sợ hãi sức mạnh của tầng lớp giàu có trung lưu ngày càng tăng vì lợi ích của nhân dân. Ông kêu gọi nhân dân làm nhiều, tiêu ít. Đồng thời, với ý nguyện củng cố chính quyền,

Khổng Tử khuyên Nhà vua làm cách nào để bắt nhân dân phải "phục tùng" mình.

Cuối thế kỷ IV trước công nguyên, quá trình suy đồi của công xã và phát sinh chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã dẫn tới mâu thuản về quyền lợi giai cấp: nông dân muốn duy trì công xã để khỏi bị nô dịch, còn giai cấp chủ nô cố phá vỡ công xã, đề cao quyền tu hữu tài sản đối với ruộng đất. Trong tư tưởng kinh tế Trung Quốc lúc này nổ ra cuộc luận chiến về vận mệnh của công xã, về khả năng kinh tế và những khiếm khuyết của công xã. game vo si giac dau Trong điều kiện đó, Mạnh Tử (372 - 289 trước công nguyên) đã phát triển tư tưởng của Khổng Tử. Mạnh Tử đã đưa ra những đề nghị nhằm khôi phục lại chế độ sở hữu ruộng đất công xã. Ví dụ, đề nghị phục hồi "chế độ tỉnh điền" là một tư tưởng do Khổng Tử nêu ra.
Xem thêm chi tiết về game tại: http://tingame247.net/game/game-vo-si-giac-dau
Learn more »

Chính sách bảo vệ các công ty Nhật Bản

Ở thị trường nội địa, MITI cũng có các chính sách bảo vệ các công ty Nhật Bản trước sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp nước ngoài. MITI cũng xác định mục tiêu là phát triển những ngành nghề nội địa, hạn chế tình trạng các công ty đa quốc gia xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản và bóp chết các doanh nghiệp Nhật Bản trên thị trường nội địa. Đó chính là lí do mà MITI giám sát chặt chẽ và hạn chế dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nhật Bản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nhật Bản chì được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm công nghệ và bí quyết sản xuất.
Để thực thi chức năng định hướng sự phát triển công nghiệp, bên cạnh MITI, Bộ Tài chính đóng vai trò là cơ quan chi huy tài chính, cơ quan kiểm soát quan trọng nhất của chính phủ, một đồng minh đầy quyền lực của MITI trong điều hành, thực thi chính sách công nghiệp của Nhật Bản. Mặc dù các ngân hàng thương mại ở Nhật Bản là những định chế tài chính tư nhân nhưng Bộ tài chính vẫn chỉ đạo hầu hết tiến trình ra quyết định của những ngân hàng này. Bộ Tài chính điều khiển dòng tiền từ các ngân hàng thương mại phải chảy vào những ngành, lĩnh vực, những doanh nghiệp được MITI lựa chọn thông qua quyền giám sát các hoạt động cho vay của Ngân hàng Nhật Bản (BOJ). Ngân hàng Nhật Bản nằm dưới sự quản lý của Bộ Tài chính. Khi nguồn tài chính cùa các ngân hàng tư nhân không đủ đáp ứng cho các doanh nghiệp mục tiêu, chính phủ sẽ ra lệnh cho các định chế tài chính của nhà nước, đặc biệt là Ngân hàng Phát triển Nhật Bản bơm thêm tiền.

chính sách bảo vệ các công ty Nhật Bản trước sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp nước ngoài

Đáng chú ý là để thực hiện những dự án nâng cấp công nghệ trong các lĩnh vực công nghiệp cũng như phát triển những ngành, lĩnh vực sản xuất park 3 times city mới, những nhóm tập đoàn kinh doanh lớn dã được thiết lập - các keiretsu. Thực tể các zaibatsu cũ đã được biến hóa thành các keiretsu. Thời gian này ờ Nhật Bản có 6 keiretsu chủ yếu là Misubishi, Sumitomo, Fuyo, Mitsui, Dai-ichi Kangyo và Sanwa Groups. Mỗi nhóm tập đoàn có một ngân hàng, một công ty thương mại đóng vại trò hạt nhân còn các công ty công nghiệp khác đóng vai trò vệ tinh quay quanh. Tất cả các công ty thành viên của keiretsu liên kết với nhau thông qua việc nắm giữ chéo cổ phiếu của nhau. Các keiretsu mặc dù được bảo vệ nhưng không vì thế mà chính phủ Nhật Bản để chúng phát triển thành những tập đoàn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả.
Trong thực thi vai trò điều hành tiến trình phát triển kinh tế, chính phủ Nhật Bản cũng đề ra các kế hoạch cụ thể. Từ năm 1955 đến năm 1973 đã có 7 kế hoạch được thực hiện, chủ yếu là kế hoạch 5 năm. Các kế hoạch kinh tế đều xác định các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phương hướng chính sách của chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu ừên cùng những chỉ dẫn hoạt động cho các ngành, các doanh nghiệp, về cơ bản, các chính sách của nhà nước hướng đến việc thúc đẩy tích lũy vốn, phát triển kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ Nhật Bản còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp mới và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu phát triển.
Learn more »